5 tháng đầu năm BHXH kịp thời hỗ trợ doanh nghiệp, đảm bảo đầy đủ quyền lợi của người thụ hưởng

Ông Đào Việt Ánh, Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam cho hay, trong 5 tháng đầu năm BHXH Việt Nam đã khẩn trương, quyết liệt tham mưu, phối hợp triển khai nhiều giải pháp, kịp thời hỗ trợ doanh nghiệp, đơn vị thực hiện tạm dừng đóng BHXH vào quỹ hưu trí và tử tuất đối với các DN bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19; thực hiện chi trả chế độ BHTN cho NLĐ bị thất nghiệp do dịch bệnh gây ra; đảm bảo công tác khám chữa bệnh BHYT; hỗ trợ người dân, NLĐ, DN trong khai báo y tế điện tử, đóng nộp BHXH, BHYT. Toàn Ngành luôn nỗ lực vì tinh thần chung nhằm đảm bảo đầy đủ quyền lợi người tham gia BHXH, BHYT, BHTN và tháo gỡ khó khăn, tạo thuận lợi cho DN phát triển.

5 tháng đầu năm BHXH kịp thời hỗ trợ doanh nghiệp, đảm bảo đầy đủ quyền lợi của người thụ hưởng


Tính đến 31/5/2020, tổng số người tham gia BHXH bắt buộc là 14,404 triệu người, đạt 89,8% kế hoạch giao; BHXH tự nguyện là 600,6 nghìn người, đạt 50% kế hoạch giao (tăng 42 nghìn người so với tháng 04/2020, tăng 26 nghìn người so với năm 2019); BHYT là 85,078 triệu người, đạt 96,6% kế hoạch giao (giảm 109 nghìn người so với tháng 04/2020, giảm 849 nghìn người so với năm 2019).


Trong 05 tháng đầu năm, BHXH Việt Nam đã chủ động, tích cực tham gia với các Bộ, ngành hoàn thiện dự thảo các văn bản quy định, hướng dẫn thực hiện chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT, BHTN; kịp thời ban hành trên 25 văn bản chỉ đạo, hướng dẫn BHXH các tỉnh, thành phố phối hợp chặt chẽ với các sở, ngành liên quan kịp thời hỗ trợ người dân và DN tháo gỡ khó khăn, ứng phó với dịch bệnh COVID-19 như: Thực hiện chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH tháng 4,5 trong cùng một kỳ chi trả cho người hưởng qua thẻ ATM, trực tiếp tại nhà; kịp thời chi trả trợ cấp thất nghiệp cho người lao động bị thất nghiệp do dịch bệnh gây ra; tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người bệnh có thẻ BHYT được kịp thời KCB hoặc chuyển tuyến KCB BHYT khi nghi ngờ nhiễm virus Corona; thực hiện ngay việc tạm ứng kinh phí cho các cơ sở KCB BHYT để đảm bảo hoạt động KCB BHYT, đặc biệt là các cơ sở KCB có người bệnh bị nhiễm hoặc nghi ngờ nhiễm COVID-19; sử dụng kinh phí chăm sóc sức khỏe ban đầu để mua thuốc sát trùng và xà phòng chống dịch COVID-19; cấp thuốc điều trị ngoại trú đối với các trường hợp mắc bệnh mãn tính, điều trị dài ngày trong thời gian chống dịch COVID-19; hướng dẫn, hỗ trợ người dân cung cấp mã số BHXH thực hiện khai báo y tế điện tử;…

Đặc biệt, đã kịp thời thẩm định hồ sơ, giải quyết tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất đối với các DN bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, tính đến 31/5/2020 có 53 BHXH tỉnh, thành phố đã nhận được hồ sơ đề nghị tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất của đơn vị, doanh nghiệp; theo đó: Tổng số đơn vị đã được phê duyệt hồ sơ tạm dừng đóng là 1.171 đơn vị, tương ứng với 107.327 lao động và số tiền ước khoảng 396 tỷ đồng.

Công tác giải quyết, chi trả các chế độ BHXH, BHYT, BHTN cho người tham gia được ngành BHXH thực hiện đầy đủ, kịp thời, giúp người dân vượt qua khó khăn trong thời điểm dịch bệnh COVID-19 diễn ra phức tạp.

Hiện toàn ngành BHXH đang thực hiện chi trả cho hơn 3,2 triệu người hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH hàng tháng. Uớc đến ngày 03/6/2020, toàn Ngành đã giải quyết: hưởng mới các chế độ BHXH hàng tháng (hưu trí, tử tuất, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp) cho khoảng 50.297 người; giải quyết hưởng mới các chế độ BHXH một lần, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp một lần, tuất một lần cho khoảng 353.616 người với số tiền chi trả là 13.154,7 tỷ đồng; giải quyết chế độ ốm đau cho khoảng 2.992.172 lượt người với số tiền chi trả là 1.413,3 tỷ đồng; thai sản cho khoảng 743.310 lượt người với số tiền chi trả là 9.591,5 tỷ đồng; dưỡng sức phục hồi sức khỏe cho khoảng 162.132 lượt người với số tiền chi trả 417,8 tỷ đồng; chi trả cho 558.418 người hưởng các chế độ bảo hiểm thất nghiệp (trong đó hưởng mới là 298.833 người) với số tiền chi trả là 5.009 tỷ đồng.

Ước đến 04/6/2020, số tiền chi KCB BHYT được các cơ sở đề nghị quyết toán trên Hệ thống giám định BHYT là khoảng 38.005.146 triệu đồng với tỷ lệ sử dụng dự toán năm khoảng 38%.

Read more

Mức đóng BHXH bắt buộc vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp

Theo đó, người sử dụng lao động hằng tháng đóng BHXH cho người lao động (NLĐ) theo quy định tại các điểm a, b, c, d, đ và h khoản 1 Điều 2 và khoản 2 Điều 2 Luật BHXH, trừ trường hợp lao động là người giúp việc gia đình, theo một trong các mức sau:

Mức đóng bình thường bằng 0,5% quỹ tiền lương làm căn cứ đóng BHXH; đồng thời được áp dụng đối với NLĐ là cán bộ, công chức, viên chức và người thuộc lực lượng vũ trang thuộc các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội, quân đội, công an, đơn vị sự nghiệp công lập sử dụng ngân sách nhà nước.

Mức đóng bằng 0,3% quỹ tiền lương làm căn cứ đóng BHXH được áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề có nguy cơ cao về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp nếu bảo đảm các điều kiện sau: Trong vòng ba năm tính đến thời điểm đề xuất không bị xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền, không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi vi phạm pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động và BHXH; thực hiện việc báo cáo định kỳ tai nạn lao động và báo cáo về an toàn, vệ sinh lao động chính xác, đầy đủ, đúng thời hạn trong ba năm liền kề trước năm đề xuất; tần suất tai nạn lao động của năm liền kề trước năm đề xuất phải giảm từ 15% trở lên so với tần suất tai nạn lao động trung bình của ba năm liền kề trước năm đề xuất hoặc không để xảy ra tai nạn lao động tính từ ba năm liền kề trước năm đề xuất.

Nghị định quy định người sử dụng lao động hằng tháng đóng vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp với mức 0,5% mức lương cơ sở đối với mỗi NLĐ quy định tại điểm e khoản 1 Điều 2 của Luật BHXH (Hạ sĩ quan, chiến sĩ quân đội nhân dân; hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn; học viên quân đội, công an, cơ yếu đang theo học được hưởng sinh hoạt phí).

Đối với người sử dụng lao động là doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp trả lương theo sản phẩm, theo khoán thì mức đóng hằng tháng tương ứng theo điều kiện từng trường hợp quy định ở trên; phương thức đóng được thực hiện hằng tháng, ba tháng hoặc sáu tháng một lần.

Read more

Sửa đổi, bổ sung một số quy định về bảo hiểm thất nghiệp

Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 15 tháng 7 năm 2020, trong đó có một số điểm được nhiều người lao động và người sử dụng lao động quan tâm.

Điều kiện để người sử dụng lao động được nhận hỗ trợ

Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 3 về điều kiện Người sử dụng lao động được hỗ trợ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động quy định tại Khoản 1 Điều 47 Luật Việc làm:

Gặp khó khăn thuộc các trường hợp theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 47 Luật Việc làm dẫn đến nguy cơ phải cắt giảm số lao động hiện có từ 30% hoặc từ 30 lao động trở lên đối với người sử dụng lao động có sử dụng dưới 200 lao động; từ 50 lao động trở lên đối với người sử dụng lao động có sử dụng từ 200 đến 1000 lao động; từ 100 lao động trở lên đối với người sử dụng lao động có sử dụng trên 1000 lao động, không kể lao động giao kết hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc một công việc nhất định có thời hạn dưới 01 tháng.

Những trường hợp được coi là bất khả kháng theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 47 Luật Việc làm, bao gồm:

Hỏa hoạn, lũ lụt, động đất, sóng thần, địch họa, dịch bệnh làm thiệt hại một phần hoặc toàn bộ cơ sở vật chất, thiết bị, máy móc, nhà xưởng có xác nhận của Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh nơi người sử dụng lao động bị thiệt hại;

Thực hiện yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc di dời hoặc thu hẹp địa điểm sản xuất kinh doanh.”

Diện xác nhận đang đóng bảo hiểm thất nghiệp

Sửa đổi, bổ sung khoản 2, khoản 3 Điều 12 về Đóng bảo hiểm thất nghiệp:

Người lao động được xác định là đang đóng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định tại Điều 49 Luật Việc làm khi thuộc một trong các trường hợp sau:

  • Thứ nhất, người lao động đã đóng bảo hiểm thất nghiệp của tháng chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc và được cơ quan bảo hiểm xã hội xác nhận trên sổ bảo hiểm xã hội;
  • Thứ 2, người lao động đã đóng bảo hiểm thất nghiệp của tháng liền kề trước tháng chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc và được cơ quan bảo hiểm xã hội xác nhận trên sổ bảo hiểm xã hội;
  • Thứ 3, người lao động có tháng liền kề trước tháng chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc tháng chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc mà nghỉ việc do ốm đau, thai sản từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng, không hưởng tiền lương tháng tại đơn vị và được cơ quan bảo hiểm xã hội xác nhận trên sổ bảo hiểm xã hội;
  • Thứ 4, người lao động có tháng liền kề trước tháng chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc tháng chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc mà nghỉ việc không hưởng lương từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng tại đơn vị và được cơ quan bảo hiểm xã hội xác nhận trên sổ bảo hiểm xã hội;
  • Thứ 5, người lao động có tháng liền kề trước tháng chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc tháng chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc mà tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng tại đơn vị và được cơ quan bảo hiểm xã hội xác nhận trên sổ bảo hiểm xã hội.

Giải quyết hỗ trợ học nghề

Sửa đổi, bổ sung Điều 25 về giải quyết hỗ trợ học nghề, trong đó đáng lưu ý:

Người lao động đáp ứng đủ điều kiện theo quy định tại Điều 55 Luật Việc làm có nhu cầu học nghề được hỗ trợ 01 lần để học 01 nghề tại cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học có đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp trình độ cao đẳng, doanh nghiệp được thực hiện hoạt động giáo dục nghề nghiệp tham gia đào tạo nghề nghiệp cho người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp (sau đây gọi chung là cơ sở đào tạo nghề nghiệp). Phương thức hỗ trợ kinh phí học nghề được thực hiện thông qua cơ sở đào tạo nghề nghiệp.

Thời điểm bắt đầu học nghề của người lao động là thời điểm sau khi ban hành quyết định về việc hỗ trợ học nghề nhưng không quá 03 tháng kể từ ngày ban hành quyết định về việc hỗ trợ học nghề đối với trường hợp không thuộc diện đang hưởng trợ cấp thất nghiệp và không quá 03 tháng kể từ ngày hết thời hạn hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quyết định về việc hưởng trợ cấp thất nghiệp đối với trường hợp đang hưởng trợ cấp thất nghiệp.

Trường hợp người lao động có nhu cầu tham gia khóa đào tạo nghề đang được cơ sở đào tạo nghề nghiệp thực hiện thì người lao động vẫn được hỗ trợ tham gia khóa học nghề này nếu thời điểm bắt đầu đào tạo nghề tính đến thời điểm ban hành quyết định về việc hỗ trợ học nghề không quá 01 tháng và cơ sở đào tạo nghề nghiệp đảm bảo dạy bù đầy đủ kiến thức của khoảng thời gian trước khi người lao động tham gia học nghề.

Read more

Lương tháng đóng BHXH sẽ quyết định mức hưởng lương hưu

Theo quy định tại điểm 2.6, khoản 2, điều 6 Quyết định 595/QĐ-BHXH về mức tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc của NLĐ có quy định: Với người làm công việc hoặc chức danh giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường: Mức tiền lương tháng đóng BHXH không thấp hơn mức lương tối thiểu vùng tại thời điểm đóng.

Lương tháng đóng BHXH sẽ quyết định mức hưởng lương hưu của người lao động

Với người làm công việc hoặc chức danh đòi hỏi qua đào tạo, học nghề (kể cả lao động do doanh nghiệp tự dạy nghề): Mức tiền lương tháng đóng BHXH cao hơn ít nhất 7% so với mức lương tối thiểu vùng. Với người làm công việc hoặc chức danh có điều kiện lao động nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm: Mức tiền lương tháng đóng BHXH cao hơn ít nhất 5% so với mức lương của công việc hoặc chức danh có độ phức tạp tương đương, làm việc trong điều kiện lao động bình thường; Với người làm công việc hoặc chức danh có điều kiện lao động đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm: Mức tiền lương tháng đóng BHXH cao hơn ít nhất 7% so với mức lương của công việc hoặc chức danh có độ phức tạp tương đương, làm việc trong điều kiện lao động bình thường.

Còn tại điều 56 Luật BHXH 2014 quy định mức lương hưu hàng tháng của NLĐ: Mức lương hưu bằng (=) tỉ lệ hưởng lương hưu (nhân) x mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH.

Trong khi đó, mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH được xác định theo điều 9 Nghị định 115/2015/NĐ-CP như sau: Đối với NLĐ thực hiện chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định. Mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH tính theo bình quân tiền lương của toàn bộ thời gian.

Đối với NLĐ thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định. Trường hợp thông thường: Bắt đầu tham gia BHXH trước ngày 1-1-1995 thì tính bình quân tiền lương tháng đóng BHXH của 5 năm cuối trước khi nghỉ hưu; Bắt đầu tham gia BHXH từ 1-1-1995 – 31-12-2000 thì tính bình quân tiền lương tháng đóng BHXH của 6 năm cuối trước khi nghỉ hưu; Bắt đầu tham gia BHXH từ 1-1-2001 đến 31-12-2006 thì tính bình quân tiền lương tháng đóng BHXH của 8 năm cuối trước khi nghỉ hưu; Tham gia BHXH từ 1-1-2007 đến 31-12-2015 thì tính bình quân tiền lương tháng đóng BHXH của 10 năm cuối trước khi nghỉ hưu; Tham gia BHXH từ 1-1-2016 đến 31-12-2019 thì tính bình quân tiền lương tháng đóng BHXH của 15 năm cuối trước khi nghỉ hưu; Tham gia BHXH từ 1-1-2020 đến 31-12-2024 thì tính bình quân tiền lương tháng đóng BHXH của 20 năm cuối trước khi nghỉ hưu; Bắt đầu tham gia BHXH từ 1-1-2025 trở đi thì tính bình quân tiền lương tháng đóng BHXH của toàn bộ thời gian.

Read more

Điều kiện, thời gian hưởng bảo hiểm khi ốm đau

Tham gia BHXH, người lao động (NLĐ) sẽ được chia sẻ, hỗ trợ khi ốm đau, bệnh tật. Theo quy định tại khoản 1, điều 25 Luật BHXH 2014, NLĐ được hưởng chế độ ốm đau khi: Bị ốm đau, tai nạn mà không phải là tai nạn lao động phải nghỉ việc và có xác nhận của cơ sở khám, chữa bệnh có thẩm quyền.

Các đối tượng áp dụng chế độ ốm đau bao gồm (điều 24 Luật BHXH 2014): Người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn/không xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 3 – 12 tháng; Người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 1 – 3 tháng; Cán bộ, công chức, viên chức; Công nhân quốc phòng, công nhân công an, người làm công tác khác trong tổ chức cơ yếu; Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như quân nhân; Người quản lý doanh nghiệp, điều hành hợp tác xã có hưởng tiền lương.

Điều kiện, thời gian hưởng bảo hiểm khi ốm đau - Ảnh 1.

Trường hợp ốm đau, tai nạn phải nghỉ việc do tự huỷ hoại sức khoẻ, do say rượu hoặc sử dụng chất ma túy, tiền chất ma túy theo danh mục do Chính phủ quy định thì không được hưởng chế độ ốm đau.

Tại điều 26 Luật BHXH 2014 quy định với trường hợp ốm đau thông thường. Thời gian tối đa hưởng chế độ ốm đau trong 1 năm của NLĐ tính theo ngày làm việc như sau:

Làm việc trong điều kiện bình thường: 30 ngày nếu đóng BHXH dưới 15 năm; 40 ngày nếu đóng BHXH từ đủ 15 – 30 năm; 60 ngày nếu đóng BHXH từ đủ 30 năm trở lên.

Làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên: 40 ngày nếu đóng BHXH dưới 15 năm; 50 ngày nếu đóng BHXH từ đủ 15 – 30 năm; 70 ngày nếu đóng BHXH từ đủ 30 năm trở lên (thời gian nghỉ hưởng chế độ trong trường hợp này không kể ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hàng tuần).

Với trường hợp ốm đau dài ngày: Tối đa 180 ngày; Hết 180 ngày mà vẫn tiếp tục điều trị thì được hưởng tiếp chế độ ốm đau với mức thấp hơn nhưng thời gian hưởng tối đa bằng thời gian đã đóng BHXH (thời gian nghỉ hưởng chế độ trong trường hợp này tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hàng tuần).

Trong khi đó, điều 110 Bộ Luật Lao động 2012 quy định, mỗi tuần, NLĐ được nghỉ ít nhất 24 giờ liên tục. Người sử dụng lao động có quyền quyết định sắp xếp ngày nghỉ hàng tuần vào ngày chủ nhật hoặc một ngày cố định khác trong tuần.

Với những quy định này thì khi bị ốm đau vào ngày nghỉ hàng tuần (trong tuần hoặc cuối tuần), NLĐ sẽ không được hưởng chế độ ốm đau, trừ trường hợp mắc bệnh cần chữa trị dài ngày.

Read more

Trường hợp nào được coi là đang đóng bảo hiểm thất nghiệp?

Vừa qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 61/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 28/2015/NĐ-CP ngày 12-3-2015 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Việc làm về bảo hiểm thất nghiệp. Theo đó, có một số nội dung sửa đổi, bổ sung quan trọng mà người lao động cần nắm rõ để đảm bảo quyền lợi của mình.

Tham gia và đóng bảo hiểm thất nghiệp

Thứ nhất, bổ sung 03 trường hợp Người lao động được xác định là đang đóng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định tại Điều 49 Luật Việc làm, bao gồm:

  • Người lao động đã đóng bảo hiểm thất nghiệp của tháng chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc và được cơ quan bảo hiểm xã hội xác nhận trên sổ bảo hiểm xã hội;
  • Người lao động có tháng liền kề trước tháng chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc tháng chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc mà nghỉ việc do ốm đau, thai sản từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng, không hưởng tiền lương tháng tại đơn vị và được cơ quan bảo hiểm xã hội xác nhận trên sổ bảo hiểm xã hội;
  • Người lao động có tháng liền kề trước tháng chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc tháng chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc mà nghỉ việc không hưởng lương từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng tại đơn vị và được cơ quan bảo hiểm xã hội xác nhận trên sổ bảo hiểm xã hội;

Thứ 2, bổ sung quy định về thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp được cơ quan bảo hiểm xã hội xác nhận bổ sung. Theo đó: “Trường hợp người lao động đã được giải quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp, sau khi chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp mới được cơ quan bảo hiểm xã hội xác nhận bổ sung thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp thì thời gian này được xác định là thời gian đóng nhưng chưa hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quy định tại khoản 1 Điều 45 Luật Việc làm.”

Trường hợp nào được coi là người đang đóng bảo hiểm thất nghiệp?

Chế độ bảo hiểm thất nghiệp

Thứ nhất, về điều kiện Người sử dụng lao động được hỗ trợ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động quy định tại Khoản 1 Điều 47 Luật Việc làm:

Người sử dụng lao động gặp khó khăn thuộc các trường hợp theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 47 Luật Việc làm dẫn đến nguy cơ phải cắt giảm số lao động hiện có từ 30% hoặc từ 30 lao động trở lên đối với người sử dụng lao động có sử dụng dưới 200 lao động; từ 50 lao động trở lên đối với người sử dụng lao động có sử dụng từ 200 đến 1.000 lao động; từ 100 lao động trở lên đối với người sử dụng lao động có sử dụng trên 1000 lao động, không kể lao động giao kết hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc một công việc nhất định có thời hạn dưới 1 tháng.

Trước đó, Nghị định 28/2020/NĐ-CP quy định nội dung trên với điều kiện: Người sử dụng lao động nguy cơ phải cắt giảm số lao động hiện có từ 30% hoặc từ 50 lao động trở lên đối với người sử dụng lao động có sử dụng từ 300 lao động trở xuống và từ 100 lao động trở lên đối với người sử dụng lao động có sử dụng trên 300 lao động, không kể lao động giao kết hợp đồng lao động với thời hạn dưới 3 tháng…

Nghị định cũng bổ sung trường hợp được coi là bất khả kháng để được hỗ trợ, đó là: Thực hiện yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc di dời hoặc thu hẹp địa điểm sản xuất kinh doanh.

Thứ 2, về chế độ tư vấn, giới thiệu việc làm. Nghị định sửa đổi, bổ sung “Phí tư vấn, giới thiệu việc làm thực hiện theo quy định của pháp luật về phí” thành “Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quy định giá dịch vụ tư vấn, giới thiệu việc làm từ Quỹ bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động theo quy định tại Điều 54 Luật Việc làm.”

Thứ 3, về chế độ trợ cấp thất nghiệp

Nghị định sửa đổi, bổ sung quy định về giấy tờ xác nhận việc chấm dứt hợp đồng lao động/ hợp đồng làm việc trong hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp:

  • Hình thức giấy tờ xác nhận: Bản chính hoặc bản sao có chứng thực hoặc bản sao kèm theo bản chính để đối chiếu của một trong các giấy tờ xác nhận về việc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc.
  • Bổ sung giấy tờ xác nhận đối với trường hợp là người quản lý doanh nghiệp, quản lý hợp tác xã là: Xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc doanh nghiệp hoặc hợp tác xã giải thể, phá sản hoặc quyết định bãi nhiệm, miễn nhiệm, cách chức đối với các chức danh được bổ nhiệm trong trường hợp người lao động là người quản lý doanh nghiệp, quản lý hợp tác xã;
  • Bổ sung quy trình xác nhận đối với trường hợp người lao động không có các giấy tờ xác nhận về việc chấm dứt hợp đồng lao động do đơn vị sử dụng lao động không có người đại diện theo pháp luật và người được người đại diện theo pháp luật ủy quyền thì thực hiện theo quy trình sau:

Sở Lao động – Thương binh và Xã hội hoặc Bảo hiểm xã hội cấp tỉnh gửi văn bản yêu cầu Sở Kế hoạch và Đầu tư xác nhận đơn vị sử dụng lao động không có người đại diện theo pháp luật hoặc không có người được người đại diện theo pháp luật ủy quyền.

Sở Kế hoạch và Đầu tư có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thuế, cơ quan công an, chính quyền địa phương nơi đơn vị sử dụng lao động đặt trụ sở chính thực hiện xác minh nội dung đơn vị sử dụng lao động không có người đại diện theo pháp luật hoặc không có người được người đại diện theo pháp luật ủy quyền.

Sở Kế hoạch và Đầu tư gửi văn bản trả lời cho Sở Lao động – Thương binh và Xã hội và Bảo hiểm xã hội cấp tỉnh về nội dung đơn vị sử dụng lao động không có người đại diện theo pháp luật hoặc không có người được người đại diện theo pháp luật ủy quyền trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu xác nhận của Sở Lao động – Thương binh và Xã hội hoặc Bảo hiểm xã hội cấp tỉnh.

Nghị định sửa đổi, bổ sung quy định về thời hạn nhận quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp của người lao động:

– Thời hạn nhận kết quả từ 01 ngày nâng lên 03 ngày làm việc: Trong 03 ngày làm việc được ghi trên phiếu hẹn trả kết quả theo Mẫu số 01 ban hành kèm theo Nghị định này, nếu người lao động không đến nhận quyết định về việc hưởng trợ cấp thất nghiệp hoặc không ủy quyền cho người khác đến nhận quyết định và không thông báo cho trung tâm dịch vụ việc làm về lý do không thể đến nhận thì được coi là không có nhu cầu hưởng trợ cấp thất nghiệp.

Nghị định sửa đổi, bổ sung quy định về Các trường hợp người lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiệp bị chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp tại điểm b, khoản 1, điều 21 “Có việc làm”.

Theo đó, người lao động được xác định là có việc làm khi thuộc một trong các trường hợp sau:

  • Đã giao kết hợp đồng làm việc, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo công việc nhất định có thời hạn từ đủ 01 tháng trở lên. Ngày mà người lao động được xác định có việc làm là ngày hợp đồng làm việc, hợp đồng lao động có hiệu lực theo quy định của pháp luật;
  • Có quyết định tuyển dụng hoặc bổ nhiệm đối với những trường hợp không thuộc đối tượng giao kết hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc. Ngày mà người lao động được xác định có việc làm trong trường hợp này là ngày người lao động được tuyển dụng hoặc bổ nhiệm ghi trong quyết định tuyển dụng hoặc bổ nhiệm;
  • Có giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh đối với trường hợp người lao động là chủ hộ kinh doanh hoặc có giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đối với trường hợp người lao động là chủ doanh nghiệp. Ngày mà người lao động được xác định có việc làm là ngày người lao động thông báo với trung tâm dịch vụ việc làm về việc hộ kinh doanh hoặc doanh nghiệp bắt đầu hoạt động kinh doanh;

Nghị định bổ sung quy định về trường hợp chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp không được bảo lưu: “Người lao động bị chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp thuộc các trường hợp quy định tại các điểm b, c, h, l, m và n khoản 1 Điều này thì thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp tương ứng với thời gian còn lại mà người lao động chưa nhận trợ cấp thất nghiệp được bảo lưu làm căn cứ để tính thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp cho lần hưởng trợ cấp thất nghiệp tiếp theo khi đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quy định, trừ trường hợp người lao động bị chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quy định tại điểm b, c, h khoản 1 Điều này nhưng không thực hiện thông báo theo quy định tại khoản 2 Điều này”.

Các trường hợp quy định tại điểm b, c, h bao gồm: có việc làm; thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an; đi học tập có thời hạn từ 12 tháng trở lên.

Nghị định sửa đổi, bổ sung quy định về chuyển nơi hưởng trợ cấp thất nghiệp.

Theo đó, bỏ quy định về thời hạn chuyển nơi hưởng trợ cấp thất nghiệp: “Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày người lao động nhận được hồ sơ chuyển nơi hưởng trợ cấp thất nghiệp, người lao động phải nộp hồ sơ chuyển nơi hưởng trợ cấp thất nghiệp cho trung tâm dịch vụ việc làm nơi chuyển đến trừ các trường hợp quy định tại Khoản 6 Điều này”.

Thứ 4, về hỗ trợ học nghề

– Địa điểm học nghề: Bổ sung trường hợp “người lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiệp mà có nhu cầu học nghề tại địa phương không phải nơi đang hưởng trợ cấp thất nghiệp”

– Thời điểm học nghề: Bổ sung trường hợp người lao động có nhu cầu tham gia khóa đào tạo nghề đang được cơ sở đào tạo nghề nghiệp thực hiện thì người lao động vẫn được hỗ trợ tham gia khóa học nghề này nếu thời điểm bắt đầu đào tạo nghề tính đến thời điểm ban hành quyết định về việc hỗ trợ học nghề không quá 01 tháng và cơ sở đào tạo nghề nghiệp đảm bảo dạy bù đầy đủ kiến thức của khoảng thời gian trước khi người lao động tham gia học nghề.

– Sửa đổi, bổ sung thời hạn ban hành quyết định về việc hỗ trợ học nghề từ 15 ngày làm việc nâng lên 20 ngày làm việc: “Trong thời hạn 20 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị hỗ trợ học nghề, trung tâm dịch vụ việc làm có trách nhiệm xác định cụ thể nghề, thời gian hỗ trợ học nghề, thời điểm bắt đầu học nghề, mức hỗ trợ học nghề, cơ sở đào tạo nghề nghiệp để trình Giám đốc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội quyết định việc hỗ trợ học nghề cho người lao động.”

Trách nhiệm của Sở LĐ-TBXH và BHXH

Thứ nhất, bổ sung trách nhiệm thu hồi tiền hưởng các chế độ bảo hiểm thất nghiệp sai quy định của Sở LĐ-TB&XH:

 – Thực hiện việc thu hồi tiền hưởng các chế độ bảo hiểm thất nghiệp do giải quyết hưởng các chế độ bảo hiểm thất nghiệp sai quy định hoặc ban hành và chuyển quyết định hủy hưởng trợ cấp thất nghiệp, chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp, tạm dừng hưởng trợ cấp thất nghiệp không đúng thời hạn quy định.

– Chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng có liên quan tổ chức việc thực hiện thu hồi tiền hưởng các chế độ bảo hiểm thất nghiệp sai quy định trong trường hợp nguyên nhân dẫn đến thu hồi không phải do cơ quan thực hiện bảo hiểm thất nghiệp.

Thứ 2, bổ sung trách nhiệm thu hồi tiền hưởng các chế độ bảo hiểm thất nghiệp sai quy định của BHXH: Thực hiện việc thu hồi tiền hưởng các chế độ bảo hiểm thất nghiệp do chi trả không đúng theo quyết định hưởng các chế độ bảo hiểm thất nghiệp hoặc chi trả không đúng thời hạn quy định hoặc thu bảo hiểm thất nghiệp không đúng dẫn đến việc giải quyết hưởng các chế độ bảo hiểm thất nghiệp sai quy định.

Read more

Gần 48% doanh nghiệp ở TP.HCM nợ bảo hiểm xã hội

Ngày 14.6, tại chương trình Lắng nghe và trao đổi về chủ đề “Bảo hiểm xã hội (BHXH) và bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) – Quyền lợi người lao động”, ông Tăng Hữu Phong, Trưởng ban Văn hóa – Xã hội, HĐND TP.HCM, cho biết số người hưởng BHXH một lần tăng nhanh nhưng tình trạng trốn đóng, nợ đóng, gian lận, trục lợi BHXH chậm được khắc phục ảnh hưởng đến nguồn quỹ.

Toàn TP.HCM có hơn 89.500 đơn vị sử dụng lao động đang tham gia BHXH thì có đến 42.680 đơn vị nợ đọng BHXH từ 1 – 3 tháng (gần 48%).

Ông Trần Ngọc Sơn, Phó giám đốc Sở LĐ-TB-XH, cho biết đa số doanh nghiệp nợ BHXH kéo dài thường không có khả năng thanh toán hoặc chiếm dụng số tiền đóng BHXH để làm việc khác, khi bị xử phạt thì không có khả năng đóng phạt và đóng tiền nợ.

Nhiều doanh nghiệp được tạm dừng đóng BHXH đến hết năm

Sau khi luật BHXH năm 2014 có hiệu lực, toàn bộ hồ sơ khởi kiện doanh nghiệp nợ BHXH được chuyển sang liên đoàn lao động nhưng do thủ tục rườm rà, tốn kém cho người lao động nên số vụ kiện “chỉ đếm trên đầu ngón tay”. Chưa kể, nếu người lao động thắng kiện thì cũng khó thi hành án do chủ doanh nghiệp tẩu tán tài sản, còn mặt bằng và máy móc thì đi thuê.

Theo quy định, sau một năm mà doanh nghiệp không chấp hành quyết định xử phạt hành chính thì cơ quan BHXH sẽ chuyển hồ sơ sang cơ quan chức năng để xử lý hình sự nhưng đến nay chưa có doanh nghiệp nào ở TP.HCM bị khởi tố về tội trốn đóng BHXH.

Ông Dương Anh Đức, Phó chủ tịch UBND TP.HCM, yêu cầu các đơn vị liên quan cần tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động, doanh nghiệp tham gia BHXH, BHTN. Sở LĐ-TB-XH và BHXH TP.HCM cần giảm các hoạt động thanh tra, kiểm tra mà chuyển sang hậu kiểm để tạo điều kiện cho doanh nghiệp tập trung khôi phục sản xuất kinh doanh sau dịch Covid-19; kiên quyết xử lý trường hợp trốn đóng, nợ đọng, trục lợi BHXH, BHTN.

Read more

Cấp lại thẻ bảo hiểm y tế mất phí không?

Cấp lại thẻ bảo hiểm y tế có mất phí không? - Ảnh 1.\

Ông Nguyễn Hữu Linh hỏi, trường hợp đề nghị cấp lại thẻ BHYT tại Cổng Dịch vụ công Quốc gia, khi thực hiện xong, nếu nhận giao thẻ BHYT tại địa chỉ nhà thì có tốn chi phí không?

Về vấn đề này, BHXH Việt Nam trả lời như sau:
  • Về vấn đề cấp lại thẻ BHYT tại Cổng Dịch vụ công Quốc gia: Người tham gia BHYT không mất chi phí cấp lại thẻ BHYT.
  • Về vấn đề chuyển phát kết quả thủ tục hành chính qua dịch vụ bưu chính công ích: Trường hợp có yêu cầu sử dụng dịch vụ bưu chính công ích thì người yêu cầu phải tự trả phí. Cước phí thực hiện theo quy định của đơn vị cung cấp dịch vụ.
Read more

Điều chỉnh thông tin trên hồ sơ hưởng BHXH thế nào?

Mua bán sổ bảo hiểm xã hội, coi chừng vi phạm hình sự | Pháp luật ...

Tên ghi này phù hợp với thông tin cá nhân trong hồ sơ, lý lịch và quá trình công tác, đóng BHXH từ năm 1980 đến năm 2000.

Sau khi thôi việc về địa phương, ông Nguyễn Văn Mùa đăng ký hộ khẩu thường trú và Giấy chứng minh nhân dân mới mang tên Nguyễn Văn Mạnh.

Ông Dương hỏi, ông nội ông có thể đổi tên trên sổ hưởng BHXH theo sổ hộ khẩu và CMND mới được không? Thủ tục thế nào?

Về vấn đề này, Luật sư Trần Văn Toàn, Văn phòng luật sư Khánh Hưng - Đoàn luật sư Hà Nội trả lời như sau:

Ngày 4/9/2014, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã ban hành Văn bản số 3228/BHXH-CSXH về việc hướng dẫn điều chỉnh thông tin về nhân thân trong hồ sơ hưởng BHXH hàng tháng.

Tại Khoản 1, Khoản 2 Văn bản này hướng dẫn: Người lao động đang hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng (gọi chung là người hưởng BHXH hàng tháng) nhưng thông tin ghi trong hồ sơ hưởng BHXH hàng tháng không thống nhất với thông tin ghi trong Giấy khai sinh, nay có yêu cầu điều chỉnh lại cho thống nhất.

Những thông tin không thống nhất về họ, chữ đệm, tên, ngày, tháng, năm sinh, giới tính… ghi trong hồ sơ hưởng BHXH hàng tháng được điều chỉnh thống nhất theo các thông tin ghi trong Giấy khai sinh của người hưởng BHXH hàng tháng;

  • Trường hợp ông Nguyễn Văn Dương, theo quy định, thông tin về họ, chữ đệm, tên, ngày, tháng, năm sinh, giới tính…trên hồ sơ hưởng BHXH hàng tháng căn cứ vào thông tin họ, chữ đệm, tên, ngày, tháng, năm sinh, giới tính…ghi trên giấy khai sinh, vì vậy nếu Giấy khai sinh của người đang hưởng BHXH có tên Nguyễn Văn Mùa, phù hợp với thông tin cá nhân ghi trong hồ sơ hưởng BHXH, lý lịch cá nhân và quá trình công tác, tham gia, đóng BHXH từ năm 1980 đến năm 2000, thì không thay đổi thông tin trên hồ sơ hưởng BHXH mà cần đề nghị Cơ quan Công an thay đổi thông tin trên Sổ hộ khẩu và Giấy chứng minh nhân dân, Căn cước công dân mới cấp, từ tên Nguyễn Văn Mạnh trở về tên cũ Nguyễn Văn Mùa theo Giấy khai sinh trước đây.
  • Trường hợp có bản chính, bản sao từ bản chính, bản sao từ sổ gốc Giấy đăng ký khai sinh mang tên Nguyễn Văn Mạnh; hoặc Giấy khai sinh đăng ký lại mang tên Nguyễn Văn Mạnh, thì người đang hưởng BHXH có trách nhiệm thực hiện thủ tục đề nghị điều chỉnh thông tin cá nhân trên hồ sơ hưởng BHXH theo quy định tại Khoản 3, Khoản 4 Văn bản số 3228/BHXH-CSXH, như sau:

Nộp 01 bản Đơn đề nghị điều chỉnh thông tin về nhân thân trong hồ sơ hưởng BHXH hàng tháng (theo Mẫu số 01 – ĐCNT do người hưởng BHXH hàng tháng lập và ký, ghi rõ họ tên) cho BHXH quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh  nơi đang hưởng BHXH hàng tháng;

Nộp Giấy khai sinh được cơ quan có thẩm quyền cấp theo đúng quy định của pháp luật về đăng ký và quản lý hộ tịch: được lựa chọn theo hướng: nộp bản chụp (photocopy) và xuất trình kèm bản chính để cơ quan BHXH đối chiếu hoặc nộp bản sao từ sổ gốc, bản sao có chứng thực.

Căn cứ thời điểm ghi trên giấy hẹn của BHXH huyện để đến nhận kết quả.

Read more

Không chốt sổ BHXH cho lao động, công ty sẽ bị phạt

Không chốt sổ BHXH cho người lao động, công ty sẽ bị phạt

Theo quy định tại khoản 3 Điều 47 Bộ luật Lao động 2012: Khi chấm dứt hợp đồng lao động, người sử dụng lao động phải hoàn thành thủ tục xác nhận và trả lại sổ bảo hiểm xã hội cùng những giấy tờ khác mà người sử dụng lao động đã giữ lại của người lao động.

Ngoài ra, tại khoản 5 Điều 21 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 nêu rõ: Người sử dụng lao động có trách nhiệm phối hợp với cơ quan BHXH trả sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động, xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội khi người lao động chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc thôi việc theo quy định của pháp luật.

Vì vậy, người sử dụng lao động phải có trách nhiệm chốt sổ BHXH cho người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động.

Trường hợp người sử dụng lao động cố tình không thực hiện trách nhiệm này thì người lao động có thể liên hệ với Phòng LĐ-TB&XH quận/huyện nơi doanh nghiệp đặt trụ sở hoặc Sở LĐ-TB&XH để được can thiệp giúp đỡ.

Để đảm bảo quyền lợi cho người lao động, khoản 1 Điều 11 Nghị định 28/2020/NĐ-CP quy định mức phạt tiền đối với người sử dụng lao động có hành vi không hoàn thành thủ tục xác nhận và trả lại những giấy tờ khác đã giữ của người lao động sau khi chấm dứt hợp đồng lao động như sau:

  • Từ 01 – 02 triệu đồng với vi phạm từ 01 – 10 người lao động;
  • Từ 02 – 05 triệu đồng với vi phạm từ 11 – 50 người lao động;
  • Từ 05 – 10 triệu đồng với vi phạm từ 51 – 100 người lao động;
  • Từ 10 – 15 triệu đồng với vi phạm từ 101 – 300 người lao động;
  • Từ 15 – 20 triệu đồng với vi phạm từ 301 người lao động trở lên.

Ngoài ra, theo khoản 4 Điều 40 Nghị định này, người sử dụng lao động không trả sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động theo quy định còn bị phạt tiền từ 02 – 04 triệu đồng khi vi phạm với mỗi người lao động và tối đa không quá 75 triệu đồng.

Read more